(Kinh tế) – Ông Nguyễn Xuân Thiết (xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa) đón chúng tôi bên đường Hồ Chí Minh. Từ đường đi vào chừng vài chục bước chân, ông dựng một ngôi nhà rường để làm nơi đón khách. Đi tiếp ra phía sau nhà rường là khoảng sáng bừng lên. Ông Thiết đưa tay chỉ lên vùng đồi nhấp nhô xanh ngút ngàn: “Đó là thành quả của gần 20 năm lăn lộn với trồng rừng của tôi. Bây giờ, rừng đã lên xanh rồi. Nhiều người cĩng đã đến để xin được ghé thăm rừng”.
Rừng là cuộc sống
Đứng ở bìa rừng lộng gió, ông Thiết mở lòng kể cho chúng tôi nghe ước mơ cháy lòng để làm sao có được những cánh rừng cho con cháu.
Năm 1978, vào tuổi đôi mươi, ông Thiết lên đường nhập ngũ và dấn thân ở chiến trường K. Sau 5 năm binh nghiệp, ông trở về quê hương xây dựng gia đình và đảm nhận một số công tác ở địa phương…
Những năm tháng đó, Hương Hóa như là “cái nôi” của việc phá rừng (?!). Xã vùng biên lại giáp ranh với tỉnh Hà Tĩnh nên lâm tặc tứ xứ đổ về. Con đường mòn ngày xưa cũng trở thành tuyến đường vận chuyển gỗ của lâm tặc. Những lần đi lại trên đó, nhìn những cánh rừng dần bị mất và những ngọn đồi bát úp trơ trọi là lòng ông Thiết như thắt lại.
Đường vào rừng cây ông Thiết.
Khi có chủ trương giao đất rừng của Nhà nước, ông như được thêm năng lượng để thực hiện ước mơ. Buổi sáng, ông bảo vợ làm cho nắm cơm thật to rồi vác rựa lên đồi sim trong cơn mưa tầm tã. Vừa dùng rựa phát cây làm dấu, ông đi chéo lên vùng đồi, lại quành xuống khe nước. Ăn hết gói cơm buổi trưa, vốc ngụm nước suối uống cho đỡ khát, ông lại đi ngược lên đồi cao để nhìn ra bốn bề. Thấy ưa mắt, ông chọn ba quả đồi để làm nơi gây dựng lại cánh rừng trong ý niệm. “Hồi đó, chẳng cần biết được bao nhiêu diện tích. Chỉ lượng sức mình trồng gỗ quý hết 3 quả đồi này là được rồi”, ông cười sảng khoái nói.
“Bây giờ kể lại thì êm êm. Nhưng hồi cách đây gần 20 năm thì cũng gian khó lắm”, ông Thiết lại mở đầu câu chuyện mới. Ở cái tuổi xém 40, ông vừa gách vác việc xã hội, vừa tranh thủ lên vùng đồi phát cây, trồng rừng. Mỗi sáng, ông cùng vợ đùm cơm vắt chéo qua hông, can nước đeo lên vai lên vùng đồi. Phát hết cây dại, lau lách phơi nắng, đợi đến lúc khô lại đốt và đào hố đợi đến mùa mưa để trồng cây. Những khi phát lùm cây dại, phát hiện còn gốc cây gỗ quý mà có thể đâm chồi là ông mừng như “bắt được vàng”. Ông Thiết bồi hồi nhớ: “Những lúc đó, thấy được gốc cây lim, huỵnh, sến, táu… là tôi sung sướng lắm. Tui phát hết cây dại quanh đó, lấy lá khô ủ gốc để hy vọng cây lên mầm sống mới”. Vài tháng lên thăm, thấy gốc bật lên chồi non, ông Thiết cứ tưởng chẳng cần “ăn cơm cũng thấy no”.
Vào mùa mưa, khi cây rừng dễ trồng, dễ sống, ông Thiết lại lặn lội đội mưa lên những vùng đồi khác tìm kiếm cây giống bản địa có gía trị, rồi đánh gốc đưa về trồng trên vùng đồi của mình. Nhiều người thấy ông vất vả cứ chép miệng: “Ôi dào, không biết ông này có sống được đến ngày thu hoạch cây rừng không mà khổ thân đến vậy!”. Nghe được, ông chỉ thầm cảm ơn họ vì tiếp thêm cho ông một nghị lực lớn: “Phải làm cho người ta thấy sau vài chục năm nữa rừng sẽ lên xanh!”.
Không chỉ kiếm cây rừng, chỉ cần nghe tin ở đâu có bán cây giống lim, huỵnh…, ông lại tìm đến để mua giống về trồng. Mặc dù ông chưa tìm thấy ở đâu có mô hình rừng trồng cây bản địa gỗ quý vào thời đó để học hỏi kinh nghiệm và tận mắt thấy kết quả vài chục năm sau, nhưng trong đầu ông vẫn nghĩ đến những cánh rừng gỗ quý được lớn dần, được khép tán trên vùng đất lau lách, bụi bờ này. Hết tiền cho việc trồng rừng, ông lại tìm kiếm công việc ở xa để có tiền mua cây giống. Khi có được chút tiền dằn túi, ông lại nhảy xe về quê, lại tất tả lên với rừng.
Chẳng phụ lòng người, rừng của ông bén rễ, lên chồi. Vùng đồi hoang hóa với cỏ tranh, nham nhở rẫy thừa thẹo đã dần phủ một màu xanh nhạt. Màu xanh theo năm tháng đậm dần lên. Khi đó, trên đầu ông, tóc cũng đã nhuốm thành màu sương.
Để lại cho mai sau…
Ông xăng xái đi trước dẫn đường. Con đường mòn nhỏ vòng vèo qua các triền dốc, lượn qua những gốc cây gỗ lớn rồi chạy hun hút lên phía đỉnh đồi. Bên mé con suối cạn chảy giữa hai triền đồi, đứng bên hòn đá lớn, ông đưa tay khoát một vòng: “Ở vùng bình địa lưng chừng đồi trở xuống, tôi trồng các loại cây bản địa gỗ quý hết. Những giống cây này thường hợp với đất có độ ẩm và mùn cao hơn. Phía trên đỉnh cao thì trồng các loại tràm, keo”.
Cánh rừng bạt ngàn của ông rộng gần 35 ha, được chia lô trồng những cây gỗ quý. Vạt rừng lim với vài nghìn cây cao đến 10m đang thi nhau vươn lên. Mé đồi bên kia là nơi gần chục nghìn cây huỵnh. Huỵnh nhanh lớn hơn, có đường kính đến 0,25m và cao vượt tầm cây lim. Còn nữa là bời lời, vàng tâm…cũng hơn chục nghìn cây đang lên bời bời.
Ông Nguyễn Xuân Thiết bên cây gỗ huỵnh nhỏ.
Khi hỏi về giá trị kinh tế cây rừng, ông cười vui lắm và bảo nếu trồng rừng cây bản địa gỗ quý thì chưa mong đến có giá trị kinh tế được. Người ta trồng keo tràm thì 5 năm, 10 năm là tính đến chuyện thu hoạch, biết được tiền thu về bao nhiêu. Còn trồng rừng bản địa thì phải đợi đến năm, bảy mươi năm sau mới nói được chuyện này. Ông làm phép tính đơn giản: “Tôi năm nay tui trên 60 tuổi, trồng rừng ngót 20 năm. Cháu nội, ngoại tôi năm nay lên 10 tuổi. Nếu tôi để rừng lại cho cháu thì vào đến tuổi thành ông bà như vầy mới khai thác. Lúc đó, chỉ tính riêng rừng huỵnh đã có được độ tuổi 70 năm. Khi đó, trung bình mỗi cây cũng được vài khối gỗ. Bây giờ giá gỗ huỵnh lớn dùng đóng tàu biển được là 25 triệu/m3. Lúc đó, chắc còn có giá hơn. Mỗi cây cũng được năm, bảy chục triệu đồng. Cả mấy nghin cây như vậy thì chắc chẳng phải là núi vàng đó sao”, ông lý giải thật lòng với câu hỏi của chúng tôi.
Ý tưởng để “núi vàng” cho con cháu mai sau của ông còn xa xa lắm. Ông lại có được niềm vui khác mà ít người có được. Bây giờ, ông làm doanh nghiệp xây dựng, làm xưởng gỗ…Những khi công việc bộn bề cần chút thư giản là ông lại lên rừng. Ông bảo: “Cứ đi một vòng cho bướt bát mồ hôi thăm rừng rồi chọn một vạt rừng nào đó có gió thổi lồng lộng đứng lại mà hít thở, mà nhắm mắt nghe rừng rì rào nói chuyện. Khi đó, mọi mệt mỏi, lo âu trong lòng cứ như tan, như biến hết. Lại thấy khỏe hẳn ra, thấy lòng thư thái để về nhà vui vầy cùng con cháu”.
Không muốn nói nhiều đến “núi vàng” hay “núi bạc”, ông Thiết nói đến chuyện sắp đến gần. Ông bảo, chục năm nữa, khi những cây gỗ quýlớn đến vòng tay ôm người lớn thì chắc thêm nhiều người đến thăm rừng. Khi đó, muốn biết về rừng, về cây bản địa thì mọi người hãy về đây, về với rừng của ông để mà chiêm ngưỡng, để mà thoải mái ôm cây, để mà hít thở cùng cây rừng chứ không chỉ nhìn thấy trên phim, trên sách báo.
Hạnh Châu
Nguồn: Báo Quảng Bình
Nguồn: Tin Quảng Bình
0 Nhận xét